KHẢO SÁT BIẾN THỂ NUDT15 VÀ TPMT TRÊN BỆNH NHÂN BẠCH CẦU CẤP DÒNG LYMPHO TRẺ EM ĐIỀU TRỊ DUY TRÌ TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU - HUYẾT HỌC
##plugins.themes.vojs.article.main##
Tóm tắt
Đặt vấn đề: 6-mercaptopuine (6-MP) đóng vai trò quan trọng trong điều trị của bệnh lý bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) trẻ em. Biến thể của gen NUDT15 và TPMT được cho là có liên quan đến việc tăng độc tính khi sử dụng thuốc 6-MP. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát biến thể NUDT15 và TPMT, cũng như ảnh hưởng của các biến thể này tới điều trị thuốc 6-MP ở quần thể dân số bệnh nhi BCCDL Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Sử dụng kỹ thuật giải trình từ Sanger để phát hiện các biến thể NUDT15 và TPMT trên 70 bệnh nhi BCCDL. Trong giai đoạn điều trị duy trì, mức độ giảm bạch cầu hạt (BCH) và liều thuốc 6-MP sử dụng được ghi nhận lại. Kết quả: 23/70 (32,9%) trường hợp ghi nhận biến thể NUDT15. Ba biến thể đã được xác định ở các nghiên cứu khác là NUDT15 *2 (p.V18_V19insGV và p.R139C), *3 (p.R139C), và *6 (p.V18_V19insGV); bên cạnh đó, một biến thể mới được chúng tôi ghi nhận NUDT15 R11Q. Tỷ lệ NUDT15 wild-type, biến thể dị hợp tử, và biến thể đồng hợp tử lần lượt là 67,1%, 30,1%, và 2,8%. Hai biến thể dị hợp tử của gen TPMT được ghi nhận là TMPT *3C và *6, chiếm 2,8%. Bệnh nhân có hoạt độ NUDT15 giảm ở mức trung bình và thấp phải sử dụng liều thuốc 6-MP dung nạp
là 55,2 và 37,2 so với 69,5mg/m2/ngày của nhóm bệnh nhân có hoạt độ NUDT15 bình thường (p=0,0001). Cũng tương tự vậy, liều trung bình thuốc 6-MP được sử dụng ở nhóm có hoạt độ NUDT15 thấp cũng phải giảm đáng kể tương đương 49,6% của liều thuốc chuẩn so với 73,6% và 92,7% ở nhóm hoạt độ trung bình và hoạt độ bình thường. Kết luận: Với kết quả trên, nhóm nghiên cứu khuyến nghị cần có sự điều chỉnh liều thuốc 6-MP dựa trên kiểu biến thể NUDT15 được ghi
nhận ở nhóm dân số bệnh nhân BCCDL trẻ em ở Việt Nam.
##plugins.themes.vojs.article.details##
Từ khóa
Bạch cầu cấp dòng lympho; NUDT15; TPMT; 6-mercaptopurine